Kinh dịch là của nước ta

KKT: Nghĩa là khi đó không cần nói tới giới mà hành động của mình không có gì sai trái với giới, phải không? (hi hi). Huynh có biết rằng Đức Khổng Tử phải năm 70 tuổi mới đạt được trình độ này không? (hi hi). Ngài nói rằng Ngài “thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du cũ”, nghĩa là: năm 70 tuổi thì tùy lòng muốn mà vẫn không xa lìa phép tắc...! Đệ diễn nôm rằng: khi đó (70 tuổi) vẫn có thể “rủ ren rù wến” mà... vẫn không xa lìa phép tắc...! (ha ha ha)
HL: Theo nhận xét của đệ là Đức Khổng Tử chỉ mới ngộ lý mà thôi, còn sự thì chưa đến được. Theo cái cách của Ngài thì Ngài chỉ khai triển tới mức nhị nguyên thôi còn cái Nhất Nguyên thì Ngài đã thấy nhưng chưa biết đường vào. Cái vụ Nhất Nguyên thì... người ta thấy lâu rồi! Nhưng đường vào thì hiện giờ Phật Giáo vẫn giữ độc quyền. Vì Phật Giáo không những có Người vào đó được mà còn giải thích phân tích rành mạch con đường! Bằng chứng là được một lô người theo đó mà vào. Tất nhiên những chỗ khác thì lâu lâu cũng có vài người lẻ tẻ họ cũng vào được. Cái này bật mí cho Huynh nghe: Kinh dịch là của nước ta còn Trung Hoa thì chỉ đến mức *San Định* là cùng. Do vậy mà hệ thống bắt mạch trong Nội Kinh thì Trung Hoa bị phe ta chơi xỏ lá mà tới giờ này vẫn chưa biết.

Chỉ đường


Wed, 06 May 1998
Anh ở đâu?
HL: Tui ở trong một cái nhà có cái sân cỏ bề ngang dài 20 mét và 58cm, bề dài dài 40 mét 47cm. Quanh đó có một cái hàng rào màu nâu đỏ cũ kỹ, lủng lỗ, thấy mà gớm, cỏ thì có lúc tui lại thấy nó... giống tui nên tui ít khi cắt, có khi nó cao tới... đầu gối. Huynh Hùng có tới phàn nàn là phải cắt cỏ đi chớ!...vv... vv. Và nếu tui cứ thế mà tả cái nhà tui thì đến... Tết Marốc Các Bạn mới biết, mà tới đúng nhà tui được.
Trở lại vấn đề Phật Pháp, thường thì trong những bài thuyết pháp tụi mình đụng tới những danh từ về Chơn Tâm như:
- Thường Lạc
- Rỗng lặng
- Thanh tịnh
- Tịch chiếu
- Như Như
Oái oăm là sau khi biết được những cái toát yếu đó thì: Tụi mình lại chuyển sang khuynh hướng dùng những danh từ đó để choảng nhau. Và ngoài chuyện choảng nhau như trên (Ở đây, tụi mình từng gặp người tình nguyện vác gậy Key Board, Với hậu quả là biến chỗ nói về Pháp tối thượng thành Võ Đài Key Board Mà quên đi rằng: Tụi mình đang bị *Bế Tắt Huyệt Đạo: Mà đệ xin tóm tắt những đoạn văn trước đây:
- Đúng rồi đó! Cứ nhìn vào nó thì nó tiêu liền thôi!
Và câu tiếp theo là:
- OK, nó tiêu liền, nhưng tui thấy... nó vẫn cứ trở lại. Và xin anh cho biết cái của anh nó có trở lại không?
- Cái của tui cũng... trở lại!
Câu chuyện trên nó cứ lòng vòng và đi vào lối cùng và sau cùng là một sự im lặng chết người và vấn đề bị bỏ lửng!
Nguyên nhân:
Có phải vì lý do mình bị thôi miên do những danh từ trên mà xảy ra cái chuyện bế tắc trên chăng?
Trở lại vấn đề Tìm nhà ở đầu bài:
Cũng giống như một Bạn nào đó, lại nỗi máu anh hùng, đi tìm nhà đệ mà chỉ căn cứ vào sự miêu tả tỉ mỉ của đoạn văn trên mà thôi. Thì chắc chắn còn lâu lắm Bạn đó mới tìm ra và có khi lại tìm lộn nữa (vì có những nhà, cùng những chi tiết đó mà... lại không phải là nhà của đệ!)
Trở về lại chuyện Phật Pháp. Cũng vì lý do đó mà lại có những bài đính chánh bàn về cái Ngoan Không chăng?
Và bạn đó có biết đâu rằng: trên đường đi đến nhà đệ, Bạn sẽ không gặp bất cứ một chi tiết nào của căn nhà mà đệ đã miêu tả kỹ lưỡng! Cho tới khi đứng trước căn nhà của đệ thì Bạn đó mới ngộ ra rằng: À! đây là cái hàng rào xiêu vẹo của đệ đây! [...]
Cũng vậy! Chỉ khi nào mình đến được cái đích tối thượng rồi thì mình mới thật sự biết những cái:
- Thường Lạc
- Rỗng lặng
- Thanh tịnh
- Tịch chiếu
- Như Như
Đó nó sẽ thật sự như thế nào mà thôi. Còn trước đó chỉ toàn là những sự suy diễn, đoán mò của mình trên những danh từ đó mà thôi. Và vì mình suy diễn sai nên mình không bao giờ tới là vậy.
Mến.

Cốt tủy của đạo Phật

Cốt tủy của đạo Phật
...BA: Cốt tủy của đạo Phật là: "làm lành, tránh ác, tu tâm"!  )
            "Không làm các điều ác,
            Luôn làm các điều lành,
            Giữ tâm ý thanh tịnh.
            Đó lời chư Phật dạy." (Pháp Cú)
thang: Đồng ý đó là cốt tủy Phật Giáo, nhưng lành hay ác chỉ có giá trị tương đối mà thôi. Trong một tiền kiếp Phật đã phải phạm tội giết người như vậy hành động đó lành hay ác?  Do đó theo tôi nghĩ ráng giữ tâm thanh tịnh đó là chuyện đầu tiên, rồi hành động theo tâm thanh tịnh.... lắm khi không có đủ thời gian để coi việt sắp làm là lành hay ác... (Nói lòng vòng rồi lại trở về thiền định nữa rồi.... )
HL: Ác và Thiện chỉ tương đối, nhưng nó có ép phê giống nhau: Làm thiện thì tâm thanh tịnh, và càng ngày càng nhạy cảm với những chuyện ác, đến độ nghĩ bậy cũng không nỗi nữa. Làm ác thì liền bị loạn động, Chuyên môn tự thúc dục bằng cái điệp khúc:
-- Đây là một cơ hội bằng vàng đây! Mạnh được yếu thua đó là luật tự nhiên! Thế là sau đó là nhào vô, đạp lên nhau, ăn thua đủ liền, bất kể nhân quả!
Do vậy mà lần hồi sẽ dẫn đến chuyện: Khó ngủ, thấy quê trong bụng mỗi khi nghĩ về chuyện đó. Với nhân quả là tan gia bại sản. Hoặc là làm ra bao nhiêu con cháu nó phá sạch.
Mến.

Nhân quả của khuyết tật


Nhân Quả

Trong lúc bàn về nhân quả,
- Anh Thu ở Đà Lạt hỏi chơi: Mấy ông coi ngón tay tui nè nó không đều và anh đưa cho tụi tui coi 2 ngón cái.
Ngón cái trái ngắn hơn ngón cái phải 0.5 cm (1/5 inch).
- Cô Trang cũng hỏi: Lưng con nỗi mụn rất nhiều.
- Anh Minh hỏi: Thằng nhỏ mới có 5 tuổi mà cận tới 6 độ lận, nó đeo cái đích ve chai chớ không phải cái kính cận đâu.
- Chú Phước Nhỏ: Cái đầu của tui nó chỉ giật liên tục khi tui thiền mà thôi. Còn không thiền thì không sao hết.
Giải quyết: Thực hiện chánh định trên khuyết tật của một đối tượng thì sẽ biết được nhân quả của khuyết tật đó. Thực hiện: Nhập Tứ Thiền Hữu Sắc, quán một màn tivi trong sáng xuất hiện rõ ràng đằng trước mặt. Tác ý coi khuyết tật của đối tượng đó. Đối tượng xuất hiện, và màn tivi tự động zoom ngay tại ví trí của khuyết tật đó. Đối tượng mất và cùng lúc ấy xuất hiện đoạn phim diễn tả tại sao mà bị khuyết tật đó.
Kết quả:
Anh Thu: Do cân đong không đồng đều (tiền kiếp)
Cô Trang: Lưng bị mụn nhiều do vát đồ ăn cắp mà ra (tiền kiếp)
Thằng nhỏ: Do nhìn Đồ Bất Tịnh mà sinh ra chuyện trên. (tiền kiếp)
Chú Phước Nhỏ: Do thú vui vặn cổ (gà vịt...) khi nhậu nhẹt (hiện kiếp) mà bị như vậy.
Mến.

Tàng Thức được ví như Internet

Hoà: Vậy giữa hai kiếp sống kế tiếp nhau, Tàng thức ở chỗ nào?
HL: Nói một cách phiến diện và hồ đồ thì Tàng Thức được ví như Internet và từng computer là đại diện cho từng Bản Ngã một vậy! Khi computer hoạt động thì nó thâu thập những kiến thức cho chính nó và nó cũng cung cấp cho internet nữa. Computer có thể tắt và mở và di chuyển, nhưng Internet vẫn vậy không tắt không mở và không có sự di chuyển.
Mến.

5 giác quan y như là 5 máy quay phim

Hiệu quả của các Trí
Wed, 28 Jan 1998
Chào quý Bạn.
Đệ lại có ý như sau:
5 giác quan: (Mắt, mũi, tai, lưỡi và xúc giác)
1 ý thức.
1 cái Tôi.
1 Alaida Thức
Lời bàn:
- 5 giác quan y như là 5 máy quay phim, nó có khả năng thâu nhận tin tức từ bên ngoài vào.
- 1 ý thức được ví như năng lực vận hành 5 máy quay phim trên.
- 1 cái Tôi to tổ bố được ví như ông bầu của đoàn quay phim, ổng có quyền kiểm duyệt và cho thêm vào những *Xảo Thuật Phim Ảnh Để Gây Ra Những Ảo Giác Như Thật*.
- 1 A Lại Da Thức được ví như cái tổng kho của tất cả những phim ảnh mà cái Tôi (ông Bầu) thâu nhận được và được chia ra làm hai chủ đề chính:
- Những Cái của Tôi
- Những Cái không phải là của Tôi
Vận hành của con Người là thâu nhận tùm lum, tà la, tèm lem hết và chất chứa trong cái kho đó đủ thứ chuyện: Từ con siêu vi trùng cho đến Đại Vũ Trụ, Thời gian là từ... Vô Thủy cho đến giờ và còn dài dài nếu chưa Giải Thoát.
Ghi chú:
Ý thức và cái Tôi thường sanh ra khen chê, yêu thương, ganh ghét, giận hờn... để thêm mùi... Đau Khổ, và gia thêm phần rắc rối cho cuộc đời, nó còn có khả năng tạo ra từng cá tánh một của anh chị em mình. Hai thứ đó hợp lại có thể sản xuất ra Quỷ Sứ hay Thiên Thần. Và đặc biệt mới đây (chỉ có trên 2541 năm) có người đã lợi dụng được hai yếu tố trên để thành... Phật). Một sự việc hy hữu, Họ (trên một ngàn ông Phật) đã để lại cho Nam Thiện Bộ Châu (Trái Đất) một xá lợi mà giờ đây vẫn còn: Tàng Kinh Cát hay Kinh Luật và Luận.
Và sau đây chỉ là một mảnh vụn được nói lại với một ngôn ngữ giang hồ, phi sách vở. Bài trên là đúc kết những vận hành của cái tâm (thức) hạn chế và còn bị Vô Minh, trong đoạn sau là bàn về sự vận hành của Tâm (Trí) khi không còn bị che lấp bởi Vô Minh hay cái Tôi nữa.
1. Thành Sở Tác Trí:
Dưới tác động của ý thức thì 5 giác quan của ta chỉ hoạt động rất giới hạn:
Tai thì chỉ biết có... nghe thôi
Mắt lại chỉ biết có... thấy thôi...v.v...
Và tất cả đều bị giới hạn.
Sự giới hạn này không phải vì giác quan đó yếu nhưng vì năng lượng cung cấp cho giác quan đó không đúng.
Ví dụ:
Khi con mắt mà dùng ý thức để thấy thì tụi mình thấy không xa và không rõ.
Vì sao?
Vì ý thức là biểu hiện của cái tâm bị che lấp trong Vô Minh nên rất yếu vì vậy mà con mắt không có điều kiện để phát triển hết khả năng của nó. Vì rằng quá nhiều người đều thấy như vậy nên mình cho rằng hiện tượng thấy trong giới hạn trên là... bình thường.
Nhưng với tác động của Không Trí thì mọi giác quan được cung cấp đúng cái năng lượng cần thiết (Không Trí) cho nó hoạt động. Nên nó có thể phát huy được hết khả năng của nó:
Khả năng toàn hảo đó có những diệu dụng sau đây: Con mắt có thể thấy Xa, có thể thấy chuyện đã qua (tối đa 40 kiếp sống), có thể rờ bằng cái thấy, dĩ nhiên có thể... nghe bằng cái thấy, và không còn trở ngại khi có thể... ngửi bằng cái Thấy (Tương tự như trên cho những giác quan khác). Bởi vậy mà nó có cái tên là Thành Sở (do) Tác (động bằng Không) Trí. Nói gọn lại là: Thành Sở Tác Trí. Và vì một ít người có thể làm việc này nên phần đông tụi mình đều cho rằng đây là những cái Thấy Bất Thường. Thật ra đó là biểu hiện của mức độ không còn chấp của dạng tu sĩ đó.
Mặt khác vì sử dụng đúng nguồn năng lượng do Không Trí cung cấp nên ngoài những khả năng trên, họ còn có thể làm những chuyện mà sức tưởng tượng của con Người dù phong phú tới đâu cũng không tài nào tưởng tượng ra nỗi: Ngũ Thông.
Nếu tụi mình dừng ở đây mà không chịu tiến tu tiếp! Theo kinh nghiệm của Đức Phật: Các hiện tượng xem ra siêu việt trên đều thuộc về tà pháp vì không giải quyết chuyện sinh tử.
Thân ái chào các Bạn.

Mình là cái thằng Tỉnh thức để điều khiển cái Ý

Ý thức
Mon, 26 Jan 1998
Chào các Bạn.
Rồi! nghe xuôi tai lắm rồi đó:
Vấn đề là cái ông ý thức là một người bạn và cũng là một kẻ thù.
1. Người bạn: Không ý thức thì sao có sự sống (hùng)! Đớp không ý thức thì đớp tùm lum, tà la, và chắc chắn đớp vào chất độc thế là tiêu đời trai. Hay thấy người đi trước, do phạm sai lầm mà chết, nay mình chẳng thèm ý thức và làm theo thì toi mạng là cái chắc!
2. Kẻ thù: Khi ý thức thì ít khi là thuần ý thức mà còn kèm theo lựu đạn và dao găm nữa:
ý thức kèm theo lựu đạn: Là ý thức kèm theo Pháp hay còn gọi là người-vác-thuyền.
ý thức kèm theo dao găm: Là ý thức kèm theo Bản Ngã - Vô Minh.
Vì vậy ngoài cách làm/chuyển từ ý thức (diễn nôm là: cái Ý nó Thức, rồi do nó thức mà nó dẫn mình, thành Thức Ý (diễn nôm là: Mình là cái thằng Tỉnh thức để điều khiển cái Ý)
Về phương diện này: Có Thiền Sư khi thức dậy, tự gọi tên mình 3 lần và tự Dạ cũng 3 lần, để nhắc nhở rằng mình phải là Thằng Tỉnh thức chớ nhất định không để cái ý nó dẫn nữa!
Các Huynh còn cách nào nữa không?
Mến.

Bàn về "Cái Thấy"

Bàn về "Cái Thấy" thì nó có những giai đoạn như sau:
1. Cận Định:
Cái thấy này bắt đầu thành hình từ nguồn gốc của khí lực.
1a. Nguồn gốc khí lực ở dưới xương cùng (Nam) và ở ngay ngực (Nữ).  



Mở ngoặc:
Do được ưu đãi như vậy mà linh tính người nữ đều trúng hơn là nam. Cũng do được ưu đãi như vậy mà khi tập thì phái nữ có mòi ngon lành lẹ hơn phái nam. (hehehe Grin chịu thôi! Sự Thật nó là như vậy mà!).

Tuy nhiên, vì mạnh như vậy mà phái nữ một khi làm bậy thì ghê rợn hơn là phái nam. Một khi chấp trước vào cái gì hay là hệ thống nào đó thì đều mang đến tai hoạ nhiều hơn là phái nam.
Nhưng một khi đã đặt ngay đúng chỗ, ngay chỗ chánh... thì phe nữ lại chánh... Phải nói là khỏi chê vào đâu được!
Thử tưởng tượng tất cả những cái soi mói, ganh tỵ, ghen tuông đó cộng với cái linh tính kia mà lại hướng vào bên trong thì hết chê! Do vậy mà khi tu thì cà xịch cà đụi lắm lận, nhưng khi đã mớm được rồi thì... chết mí bà! Grin Grin Grin
Đóng ngoặc. 

1b. Kế đó là cái phần gọi là "Canal" là cái ống trống không ở ngay trung tâm thần kinh xương sống (Khoa Học tìm có học máu cũng không thể biết nó có công dụng gì
Nó có công dụng là chuyên chở những dòng tĩnh điện do sự bốc hơi của giọt tinh (giọt nước trong trong đó quý ông) 


Mở ngoặc:
Đây là phần quan trọng của vấn đề điều thân! Khi thư giãn ngon lành thì cái rảnh này lại tròn vo do đó dòng điện di chuyển không bị trở ngại. Do vậy mà khi quên không điều thân (thư giãn) thì cái ống này lại hiện ra tình trạng không đều: Chỗ thì hẹp túm, chỗ thì lại tròn vo. Do không đều mà khó có thể tu cao được.
Đóng ngoặc. 


1c. Và bay vù lên đụng cái tùng quả tuyến (gland pineal)



Từ vị trí này, và nhất là do tập trung tư tưởng ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và nhập chánh định trên một đề mục chọn sẵn: Tuyến Tùng Quả này có tác dụng như là một cái kính phản chiếu nghiêng 45 độ và đưa tất cả cái thần lực này đụng phải cái xoang tráng. 

1d. Xoang tráng chỗ nằng nặng ngay tại chỗ này nè (hello Brightmoon):


Ngay boong chỗ này, trong hình: Là chỗ của Chư Thiên thường hay tập trung.
Để ý là nó nằm cao hơn chỗ hai chân mày giao nhau đó nghe. 
Còn chỗ hai chân mày giao nhau là chỗ mà Tha Hóa Tự Tại hay tập trung. Chỗ này HSTD chê, và không thèm chơi 
Mở ngoặc:
Đầu tiên là máu dồn về chỗ này.

Với cảm giác nằng nặng là thông thường.
Với tiếng nổ to y như là lựu đạn: Đó là những dây thần kinh phải nối lại với nhau, và khi nó nẹt điện để đụng nhau: Nó phát ra tiếng nổ này! Giật mình là cái chắc, xả thiền là đương nhiên, hồi hộp là không có trật! Dĩ nhiên phản ứng tự nhiên là nghỉ giải lao vài ba ngày cho tới khi hết hẳn cái cảm giác sờ sợ ghê ghê thì mới tập tiếp.
Còn nếu liều mạng mà tập liền thì hệ thần kinh lại chưa theo kịp nên nó sẽ đẻ ra nhiều khuyết tật về sau này. Y như là nền nhà chưa có khô, chưa có vững mà đã hấp tấp xây nhà lên liền vậy!... Tất nhiên là khó mà tu lên cao được vì nó sẽ nứt, sẽ xì hơi,...
đóng ngoặc.
 

2. Bây giờ lại bàn về Chánh Định:
Khi mà độ tập trung tư tưởng ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn đã đủ lực thì có những biểu hiện như sau:
21. Không gian bắt đầu có chiều sâu. 3D
22. Hình ảnh chuyển sang dạng hình nổi 3D
23. Hình ảnh nổi và không gian đen và cũng nổi luôn!
24. Hình ảnh quán tưởng thay đổi từ dạng thô (do hình phẳng (2D) đưa lại: Thông thường là không rõ nét mặt) sang cái hình có mang cái mặt của người dẫn đường và sau cùng là một hình Bồ Tát hay là Đức Phật với nét mặt thật là đúng sự thật (có nghĩa là một nét mặt khác hẳn, không còn mang cái nét mặt của người dẫn đường nữa). 

TLT:
-Tương tự: Ông Phật màu vàng sáng chói ->con nghĩ là “bên ngoài” vì là không thể nào mà có ai đó “tự vẽ " trong tâm” được hình Ông Phật khi chưa thấy? 
Tibu:
Nhào vào mà chơi ngay hình ông Phật thì đúng y như con nói! Và đúng đến 100% luôn và nó sẽ cho ra nhiều ảo giác dẽ tè luôn. Sau đó là không biết đâu là đúng, đâu là sai. Là vì cõi giới, nhất là... Tha Hoá Tự Tại (lại cái cõi này nữa!), nó chui vào thân thể và nó làm cho mình thấy! Tai hại không biết đâu mà lường! 
Thực tế thì nó nên theo chương trình như vầy nè: 
Do đó cho nên chú hay khuyến khích việc quán cái hình xâu chuỗi 18 hột + hột châu mẫu.
Và làm cho thật là chắc cú.
Tùng bước một,
Từng tý một, kỹ lưỡng, sáng choang, bóng loáng, chiếu sáng trưng y như là một mặt trời!
Nói như trên tức là: Thiệt luôn đó, có nghĩa là làm xong (tức là đạt được cái sáng choang) thì ra ngoài nhìn vào mặt trời giữa trưa (không có mây che mặt trời) và so sánh với cái nhìn của mình. Nó bằng hay là thua đều được hết! Còn chưa bằng thì làm tiếp cho nó bằng hay là sáng hơn thì mới thôi.  
Không làm được thì sẽ bị ảo giác chi phối, và sẽ sanh ra tình trạng chế chiêu này nọ: Như là Hoa sen với cái đít bằng phẳng! Hình Phật mập mạp như con heo! Ánh mắt, nụ cười chẳng ra gì: Giống mặt quỷ nhiều hơn, Giống như là dân ăn chơi... 
Tất nhiên việc quán cho ra đâu có dễ làm được đâu? Mà phải là sự kết hợp của nhiều thứ:
Ưa thích làm
Kiểm soát tư tưởng 100%.
Thiền định theo chương trình: Hễ mà khi rảnh thì tập liền!
Cho tới chuyện giữ đề mục liên tục 24/24.
Và rồi tiến tới là giữ bảy ngày liền tù tỳ!
Và giữ mức độ vui vẻ số 10. 
Hội đủ mức độ tập trung cao độ như vậy thì Linh Ảnh mới dùng được. Tuy nhiên, khi Linh Ảnh hiện ra đều bị hành giả trứ danh này "không tin" và làm động tác thử nữa! Sau khi thử xong rồi thì mới dùng! 
TLT:
- Thế rùi con lại mâu thuẫn: Nếu nó là không gian bên ngoài thì làm sao con thấy được đề mục của mình (khi con đã giỏi) vì đề mục là chính con “vẽ”?
- Hay đề mục là phương tiện gọt giũa, rửa sạch "không gian tâm thức" để mình thấy được “không gian bên ngoài”?
Khi con tính hỏi Chú điều gì, con hay tự hỏi: mình hỏi cái này nhằm mục đích gì?
Cái nì cũng zị, con nghĩ, con nghĩ miết và rùi con tự trả lời: “để biết cái tâm mình còn “dơ” đến cỡ nào“ (con biện hộ cũng… hay, phải không ạ)
Rùi lúc đó con mới mạnh dạn viết đó Chú!!! Grin Grin Grin
Con cám ơn Chú
Kính         
TB: mừng quá, cám ơn HSTD nha! TLT viết xong bi giờ là còn sửa lỗi chính tả được, chứ lúc trước, nó cứ nhảy "lambada" miết  (khi bài dài qua cái khung) không làm gì được cả.           
Tibu:
Nó dùng nguyên tắc của sự cộng hưởng. Khi bên trong là Bồ Tát thì cái thấy bên ngoài nó tương ưng. Khi bên trong là ông Phật thì cái thấy nó là cảnh giới của các Đức Phật.
Do vậy, thật là đúng y như con nói là: Đây là một phương tiện để kiểm soát tâm thức bên trong và khi kiểm soát thì chính nó làm cho trong sạch luôn (vì không có sạch bên trong thì nó không có ra đề mục mà ra cái bùi nhùi đầy màu). Khi nó sạch rồi thì nó lại hướng ra bên ngoài với một cảnh giới tương ưng với tâm lực của chính mình. 
Khi con dợt thì con thấy là: nó không ra là vì mình lubu nhiều quá, mình đừ quá, mình nói nhiều quá, ... 

Bồ Đề Đạt Ma là người như thế nào?

Công kích Thiền Tông
Apr 5, 2006  
HL: Chào Huynh KKT.
Công kích nhiều nhất là đệ đây nè. Bồ Đề Đạt Ma là người như thế nào? Người thiệt hay là huyền thoại? Đã nói là Vô tâm thì cái chuyện Chùa Thiếu Lâm Tự là cái chuyện học võ để... "Tự Vệ"! Vô tâm mà còn chuyện Tự Vệ thì có đúng là Vô tâm không?
Còn nữa nè! Để con người ta đợi đến tuyết đổ ngang lưng (lạnh cóng xương) mà cứ tỉnh bơ. Sau đó con người ta mới gọi 911 (và chờ xe cứu thương đến) để có người cầm máu, rồi sau đó mới lấy con dao mà cắt cánh tay. Huynh thử nhắm mắt lại và coi con người ta cắt ra làm sao mà đứt một cánh tay ngon lành vậy? Vì cắt đứt ba bốn động mạch thì chỉ có 30 giây sau là... đứt bóng liền!
Chuyện ngay từ đầu là chuyện xạo thì những chuyện sau này làm sao mà tin được cà. Không có authentic gì ráo trọi hết. Chuyện Đại Thừa (Made in China) chỉ là chuyện... "Tự ái Quốc Gia" mà ra mà thôi.

Lên đồng

Khi mình tu hành thì mình sử dụng hệ thần kinh là cái chắc, nhưng có nhiều cách sử dụng nó:
1. Mình tập trung trên ngay thân xác này: như là ngay đầu lỗ mũi, ngay giữa hai chân mày, tập trung vào hơi thở... Những cách này cao lắm chỉ đưa đến Cận Định mà thôi. Chỉ có Đức Phật mới có thể vào Sơ Thiền! Điều này đối với đệ và Anh Sơn đều là chuyện khó hiểu (2 tên đều làm thử nhưng không cách gì mà vào được).
Và những cõi mình cộng hưởng được là những cung trời của Dục Giới: thấp nhất là Tứ Đại Thiên Vương và cao nhất là Tha Hoa Tự Tại. Những ông bà tiên ở những cung trời này đều có cùng một dạng tâm thức: Thô Tâm của những vị này ít nhiều gì cũng đã thanh tịnh rồi, nhưng vi tế tâm thì vẫn ồn ào và giao động lung tung.
2. Mình lại tập trung vào một linh ảnh ở ngay đằng trước mặt, thì điều này lại làm cho mình có thể quên đi thể xác một cách dễ dàng và do cái quên này mà mình mới có thể vào được Chánh Định càng ngày càng mạnh hơn, vững hơn và cao hơn. Những cõi mà mình có thể cộng hưởng được là Sơ Thiền cho tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Sở dĩ có chuyện cộng hưởng là vì Thô Tâm đã im lặng từ lâu lắm rồi, và vi tế tâm cũng từ từ im lặng luôn.
lbt: Và động tác mở của trong tu tập tâm linh là ra sao.
HL: Trong Cận Định thì mình phải dùng cái hệ thần kinh của thân thể để mà đón nhận một thần lực nào đó: Trong những khoá "Thánh Linh" bên Thiên Chúa Giáo, hay là những lúc mà những vị này cầu nguyện tập thể thì những vị hay xoè tay ra và đồng thời, dùng mắt, nhìn lên trên vùng không gian ở phía trên cao. Nếu chỉ làm như vậy không thôi thì chắc chắn không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đằng này những vị này còn tác ý là Chúa Thánh Thần... xuống để tràn vào thân thể của những vị này: Tha Hoá Tự Tại nghe được như vậy là họ vào liền, do họ vào mà đủ thứ "tiếng lạ" phát ra v.v... Sở dĩ Tha Hoá Tư Tại nhập liền là vì... có hai con đường để tu thành Tha Hoá Tự Tại:
1. Bằng con đường giúp đỡ

1.1. Vì thấy cuộc đời quá là khổ nên hành giả phát nguyện cứu giúp những người khổ cực này một cách "Bất Vụ Lợi". Nhưng lại rất là tự hào về hành động của mình.
1.2. Chỉ một lòng giúp đỡ (theo kiểu làm nô lệ) mà không có lòng oán hờn hay trách móc khi bị hành hạ. Nhưng lại rất là tự hào về sức chịu đựng của mình.
2. Bằng con đường lắng động Thô Tâm: Hành giả rất là tự hào về sự lắng tâm của mình! Vì nhờ vào sự lắng tâm này mà mình có linh tính khá đúng (đúng khoảng 70%) về những việc sẽ xảy ra trong một tương lai gần.
Như vậy khi Tha Hoá Tự Tại thuộc về loại thứ nhất (thành tựu do sự giúp đỡ) biết được ý đồ của tu sĩ thì họ liền nhập vào liền! Bởi vậy, thiện chí mà không có trí tuệ thì có lúc đâm ra phá hoại. Lê Nin là trường hợp này đây. Tất nhiên loại thứ hai (thành tựu do sự lắng động Thô Tâm) thì lại ít khi nhập hơn, nhưng không phải là họ không nhập được.
Lên đồng thường:
Những vị này lại tác ý ngày vào huyệt Bách Hội và mở nó ra để đón nhận Xác Thầy, Xác Cô, Xác Đồng Tử, Xác Tề Thiên Đại Thánh, Xác Bạch Hổ... Tha Hoá Tự Tại và các Điện Thần Nhân cũng có thể vào được và họ sẽ theo ý thích mà nhảy nhót, múa may, ra lệnh... (Tha Hoá thì đùa dai, còn Điện Thần Nhân thì có cấp bực hẳn hoi).
Lên đồng do A Tu La:
Người lên đồng lấy một sợi dây bằng vải màu đỏ và nhờ hai người khác thắc cổ mình bằng sợi dây đó. Sau khi sợi dây siết chắc cổ và nằm sâu vào cần cổ thì vị A Tu La này mới nhập vào 100% và lúc này vị này mới có thể khuyên điều này, chỉ điều kia, chữa bệnh... Thông thường người lên đồng thuộc dạng này bị một bịnh rất là nặng khó có thể chữa lành. Người này lại nằm mơ và A Tu La đến nói rằng nếu chịu lên đồng thì sẽ được hết bệnh. Cũng trong giấc mơ, người này lại đồng ý và từ đó hết bệnh và cũng từ đó mới có cái chuyện lên đồng như kiểu trên.
Phật Quyền, Vạn Thiên Giới Linh, Tâm Linh:
Pháp môn này có một cách bắt ấn đặc biệt gọi là "Tâm Ấn", khi bắt ấn này thì ngón áp út đụng nhẹ vào huyệt Lao Cung trong lòng bàn tay. Sự đụng nhẹ và vừa phải vào huyệt này làm cho tất cả những huyệt đạo khác trên thân thể mở ra và từ đó các "Điện Thần Nhân" mới có đường vào và chính những điện thần nhân này đánh võ, đọc kinh, lấy đồ trong chiều ảo, chữa bệnh, bắt ma, giảng kinh, đọc bài "Tâm Kinh" (một bài kinh của môn phái này, chớ không phải là Bát Nhã Tâm Kinh).
Do rắc rối như vậy, mà Phật Giáo mới có công thức Hộ Thân.

Bàn về sự cộng hưỡng - LPN

Cái tâm của mình luôn luôn dao động như con lắc lò xo. 
- Tu chính là cách làm cho tâm của mình dao động chậm lại và càng đều càng tốt.
dao động lúc vầy lúc khác gọi là loạn động. 
Tần số dao động của tâm trùng với cõi giới nào thì nó sẽ cộng hưỡng tới cõi giới đó. Và chúng hữu tình của cõi giới đó sẽ bị thu hút về.
Tần dố dao động trùng với f của thanh tịnh thì sẽ cộng hưỡng với cõi này thì tốt.
Nếu cộng hưỡng với các cõi khác như: ma, atula.... thì họ sẽ đến gần mình và tác động, xui khiến làm mình hành động xấu.

phần tâm linh thì bị tê liệt hoàn toàn

Thật vậy: Ví như một người bị bán thân bất toại: 
Một phân nửa thân thể thì hoạt động bình thường, còn một phân nửa kia thì liệt. 
Cuộc đời bọn mình cũng y như vậy đó: 
Một phân nửa cuộc đời thì hoạt động ngon lành còn phần tâm linh thì bị tê liệt hoàn toàn.
Con Người méo mó này, lê lết thân xác đầy bịnh hoạn để đi tìm cái hạnh phúc, cái chân thiện mỹ. 
Với một thói quen là đụng cái gì thì ôm cái đó:
Đụng Có thì ôm cái Có. 
Đụng Không thì ôm cái Không. 
Đụng Pháp thì ôm cái Pháp. 
Và khi đụng những cái Phi Pháp thì liền buông hết để ôm cái...Phi Pháp. 
Các Thầy và các Bạn sẽ tính sao nếu đoạn trên, đệ không bỏ dấu. 

Tiền Định (được định trước)

Chuyện sở dĩ được định trước (tiền định) là: Vì nhân đã gieo hồi xa xưa. Còn Đức Phật khuyên tinh tấn tu hành là vì:
1.Về Giới: Mình không làm ác nữa và chuyên làm lành:
Chuyện này có hiệu quả lâu dài vì mình tích cực gây nhân tốt nên những chuyện tiền định ở những kiếp sau này, khi quả đã chín mùi, thì rất là tốt: Mình được "Lợi".
2.Về Định: Mình tích cực nhập Chánh Định theo kiểu *cần cù bù khả năng là: An trú niệm đằng trước mặt thì sẽ đem lại hạnh phúc trong lúc tập và sau đó nó đủ sức để lan toả cái hạnh phúc này vào những người thân cận mình, và sau cùng là một vài người hàng xóm. Sự nhập chánh định này còn có tính cách làm thay đổi tính tình của mình. Do vậy mà phải tinh tấn. Lợi nữa.
3.Về Huệ: Thì cái chót bẹt là mình biết được một tương lai gần (cái biết này sở dĩ có là vì mình đọc được cái *Nhân* qua cái chánh định. Và tất nhiên mình thấy luôn cái quả của nó cũng bằng sự nhập chánh định). Còn cái cao cấp thì mình rất là bình tĩnh khi gặp chuyện khó. Mà hễ mà mình bình tĩnh thì cả nhà bình tĩnh không làm bậy và không phải hối hận, vậy thôi.
Cái này thì quả là có phước lớn. Do vậy, nên tinh tấn vì chuyện này vừa có lợi cho mình và vừa có lợi cho bà con thì tội gì mà không làm.

Dâm Tính xuất hiện


Hiện tượng đề mục ra được hình nỗi (3D) là Chánh Định... đang ngự trị trong tâm của con.

Cái sai lầm của Tu Sĩ là:
Khi nhắm mắt, mà lại... nhìn quanh coi nó có 3D hay chưa?



Thật ra, để có cái 3D thì cái nhìn nên đứng yênđứng im ngay tại chỗ đã quy định mà thôi. Không có nhúc nhích, liếc ngang... liếc dọc này nọ. 



Lý do: Định lực mà! Có nghĩa là cái lực của sự... đứng im mà!
========
Đây là một sự vật lộn của Định Tâm và phàm tâm. Tập như vậy là mệt lắm! 



Tinh Khí Thần sẽ được dồn lại và đốt cháy trong công phu đầy tính kỹ thuật này đó nghe.



Phân tích theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư:
1. Khi Tu Sĩ ngưng tập sau khi Tinh Khí Thần đang được hội tụ lại thì > Dâm Tính xuất hiện
2. Dâm tính sẽ bớt hơn khi có kèm theo các hiện tượng "Cận Định"
3. Dâm tính sẽ hết khi đề mục xuất hiện 3D.

 -Trích Dẫn :Thật ra, để có cái 3D thì cái nhìn nên đứng yên, đứng im ngay tại chỗ đã quy định mà thôi. Không có nhúc nhích, liếc ngang... liếc dọc này nọ.

Lý do: Định lực mà! Có nghĩa là cái lực của sự... đứng im mà!
========
Đây là một sự vật lộn của Định Tâm và phàm tâm. Tập như vậy là mệt lắm!

Tinh Khí Thần sẽ được dồn lại và đốt cháy trong công phu đầy tính kỹ thuật này đó nghe.

Phân tích theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư:
1. Khi Tu Sĩ ngưng tập sau khi Tinh Khí Thần đang được hội tụ lại thì > Dâm Tính xuất hiện
2. Dâm tính sẽ bớt hơn khi có kèm theo các hiện tượng "Cận Định"
3. Dâm tính sẽ hết khi đề mục xuất hiện 3D
Phần này phần dẫn đến câu hỏi sau đây
Trích dẫn
        * Nói kỹ chổ này cho con hiểu với : vì con đang tập cái kiểu đứng im này nhưng nói ra xấu hổ vì tự nhiên cái nhìn con chuyển hướng vô những chổ không đáng nhìn .
Chi tiết "kỹ thuật quán này" rất quan trọng. 
Ông bà có nói: 
Cặp mắt là cửa sổ của linh hồn. 

Cho nên hể mà "cái nhìn" nó hướng vô những chỗ không đáng nhìn" là cái tâm của mình đang loạn (tuy rằng rất là ít!Vì có lúc nó loạn đến độ, không thể nào nhắm mắt được luôn!). Nhưng so với "cái ý của sự đứng im" thì nó còn đang cục cựa (loạn tâm).
========
Bây giờ là bàn về chuyện gì xảy ra khi Tu Sĩ Gạo Cội tập:
Trước khi tập: lúc nào cũng nên soạn trước chương trình tập là như thế nào?
Khi đang tập: cứ theo y như trên đó mà làm.

Không vì lý do gì mà làm sai lệch hướng công phu đã soạn trước này.

Và cứ vậy mà tiến thì chẳng mấy chốc "em nó" hiểu ý của mình khi tập!
Một khi đã hiểu thì "em nó" cứ vậy mà làm tới cho tới khi ra được đề mục mới thôi.
========
Chi tiết sau đây, coi vậy mà cứ bị vấp hoài Grin Grin Grin

Bởi vì khi đề mục nhá lên một cái (sách vở: xuất hiện trong một sát na) thì cái tâm (vốn nhiều chuyện): la ối lên một cái!

Thế là đề mục lại mất tiêu Wink

========
Vậy là lại hỳ hục làm lại từ đầu!
Tuy nhiên, thay vì im lặng mà làm thì tâm phàm này lại chế chiêu:

Lần này thì cái tâm nó lại trông ngóng cái đề mục "sao lại không xuất hiện cà?"

Tai họa là: thay vì im lặng mà tập thì cái tâm nhiều chuyện lại cứ trông ngóng cái đề mục!

Vậy là đề mục trốn luôn! Grin Grin Grin 

Nếu không trông ngóng thì đề mục xuất hiện lại liền.

Trích dẫn
Con nghe bài sám hối do thầy và các bạn trên đạo tràng có lúc mình phải lẩm bẩm đọc sám hối cái này ,nhưng bây giờ đọc được cái đoạn này con cần phải hiểu rỏ nó để vượt qua nó ,thầy khỏe giúp con với ,sám hối có kết quả thầy ạ .con chào thầy .chào cô (bắt chước em TLT.)
Thì lâu lâu cứ nhớ nhắc cái tâm là: Khi nào em tập thì cứ lo tập thôi. Còn chuyện ra hay không ra là chuyện của "nghiệp quả" (Hoặc là chuyện Trời Đất).

Ù lỳ trong công phu - nên đọc mỗi ngày để hiểu rõ

Ù lỳ trong công phu
3-16-2009
Trước hết là xin cảm ơn người hỏi cái câu hỏi này, vì nó quá hay, do quá hay mà khi trả lời thì đụng mạnh đến nhân quả nên bị nó... chơi trước (điều này thì ai mà làm chuyện chỉ bày vớ vẩn thì... quá quen thuộc! Và coi như là chuyện bình thường):
Trái tim cà xịch cà đụi của đệ được Bác Sĩ đưa vào hai cái lò xo bằng kim loại titanium. 
Vừa rồi loay hoay thế nào đó mà bị... tỉnh điện nó giật một phát ngay chốc vào ngay cái chỗ hai cái lò xo này: Kết quả là dòng điện cung cấp cho trái tim (dòng điện này do dây thần kinh và mạch máu cung cấp) bị rối loạn!

Thế là sau khi bị giật một phát là... tình trạng "an thần" xảy ra:
Đệ ngủ chưa từng có (một ngày ngủ từ 12 giờ tới 14 giờ liên tục).
Mới hôm kia, đệ chống trả lại bằng "Chánh Định"! và nay đã làm xong: Tim trở lại bình thường. 
Được như vậy cũng xuýt chết, vì trước khi tim nó về lại sự bình thường thì nó đập lạng quạng lắm: 
Nó đập mạnh và nhẹ không có thứ tự gì hết:
Nhẹ thì nhẹ như tơ hồng, mạnh thì như là "động đất": Máu dồn bất ngờ lên đầu rất là mạnh. Nó hành hạ đệ trong vòng nữa giờ thì hết. Nay đã bình thường.
Ngày mai nghỉ làm, ở nhà, thì nó sẽ lấy lại sức, không sao hết. 
Trở lại vấn đề: Tập tành, sao nó cứ ù lỳ!

Tóm tắt, những điều sẽ trình bày (ngày mai sẽ nói tiếp... chi tiết hơn):
A. Thói quen tu sĩ:
1. Đóng dấu tâm linh khi còn trớn ở "Cận Định" Có nghĩa là khi vừa mới ra cái bùi nhùi màu sắc mờ mờ, ảo ảo, xìu xìu, ểnh ểnh (củi lửa không nên thân).
2. Chai lỳ tâm thức (do máy móc)
B. Giải quyết:
3. Suy nghĩ dương tính trong tình trạng thê thảm (tự bơm)
4. Tỷ lệ "quyết tâm".
5. Tuyệt chiêu của Đại Đệ Tử của Đức Phật.
Viết ngày 12 tháng 3, 2009

Tình trạng bị ù lỳ trong công phu:

A. Thói quen tu sĩ:
Tu sĩ hay bất cứ nghề gì cũng bị cái thói quen nghề nghiệp nó làm cho tu sĩ, theo thời gian, mất đi cái cảm giác của "cái thủa ban đầu lưu luyến ấy", có nghĩa là: Thay vì vừa làm vừa thưởng thức thì lại làm một cách máy móc, theo phản xạ. Điều tai hại lúc nào cũng xảy ra, nếu tu sĩ không làm cho mình "vui số 10" (với số 0 là không vui gì hết, và số 10 là vui tối đa). Không có cái vui này thì cái tâm nó lại chạy theo thói quen "buôn bán, tính toán này nọ" liền!
Thói quen thâm căn cố đế:
Cái mặt chìm của cuộc sống là đi tìm hạnh phúc, không có cái này thì... ai mà dại dột làm việc đó chi cho mất công, và tốn thời giờ một cách vô ích như vậy?
Từ uống rượu, hút xì ke, đánh bạc, đi ăn vụng, ăn cao lương mỹ vị, uống máu, nhóm họp bạn bè, làm ăn... cái gì cũng không ngoài cái mục đích là đi tìm cái hạnh phúc.

Trong đó có cái tu tập, cái mà nó đòi hỏi "Con Người" phải đạt tiêu chuẩn hạnh phúc rất là cao cấp, và cực kỳ rõ ràng. Tuy nhiên, do thói quen đã nói ở trên: Hành giả sau 1 thời gian tu tập thì tự nhiên lòi ra những phản ứng phụ trong công phu, những phản ứng này phát xuất từ nghiệp sát.

1. Đóng dấu tâm linh khi còn trớn ở "Cận Định" Có nghiã là khi vừa mới ra cái bùi nhùi màu sắc mờ mờ, ảo ảo, xìu xìu, ểnh ểnh (củi lửa không nên thân).
1.a. Trước hết là nên hiểu tình trạng "cận định" và tầm ảnh hưởng của nó:
Tâm ở Cận Định là một dạng công phu cao cấp ở Dục Giới (Tương đương với Tha Hoá Tự Tại). Đồng thời nó cũng là... tiếng nói của lương tâm (nếu tâm thức giao động ngay ở cái bản lề giữa Thô Tâm và Vi Tế Tâm).
1.b. Kế đó là nên biết cái ưu điểm và cái khuyết điểm của nó:
Trong tư thế này mà kết luận bất cứ cái gì thì hành giả đều có thể tác dụng trực tiếp vào cái "Vô Thức".
Mà cái "Vô Thức" mà bị kích động... đúng thì nó lại bơm cho hành giả tiếp tục tiến tu.
Nhưng nếu mà nó bị... kết án thì nó sẽ cầm chân hành giả lại một thời gian rất là dài. Hư bột hư đường cũng là ở chỗ này đây!

Bơm à?
Ừ, nó có thể bơm hành giả khi hành giả "vui số 10". Còn "không vui được số 10", thì hành giả ráng sức mà tự bơm mình lên bằng cách là suy nghĩ về phước báu vô lậu này là: Ngồi xa lông mà cũng có đầy đủ pháp hành! (khỏi cần trèo non lội núi để tìm Milarepa) Ra ngoài đường thì tay bắt mặt mừng với Quan Thế Âm bằng xương bằng thịt!... Có gì thì... mét Quan Thế Âm và nhờ giải quyết!
Và nhớ là suy nghĩ về những chuyện này khi vừa công phu xong.
 Lúc này tâm lực nó đang còn ở tình trạng "Cận Định" với cái cách suy nghĩ về cái phước báu này thì qua lần công phu sau: nó có thể lên tinh thần và... bơm mình để có thể tiến tu.
Cầm chân được à?
Ừ, nó bị chính mình kết án là... đồ cù lần! Làm ăn không nên thân! Ổng đã chết lên chết xuống và đưa tới tận miệng mà làm... cũng không xong!
Với câu kết án như vậy thì nó xuống tinh thần và lần sau là... chưa tập đã bị... khớp vía và do đó là... hết pin! Nó còn bị cái ký ức này kềm lại khi gặp trở ngại trong công phu.
Nó là cái "lương tâm" hay là cái "Vô Thức" đó! Cả hai cái mà nó rị lại là thua to.

2. Chai lỳ tâm thức:
Như trên đã nói là sau một thời gian tu tập thì buổi công phu biến thành phản xạ, hành giả làm ... như máy, và mất hết cái "tình cảm" mà mình có được vào những buổi đầu: Tâm thức trở nên "chai lỳ". Do sự nhàm chán này mà tính cách linh động của đề mục lại không còn nữa.
2.a. Sự phát sinh:
i) Sở dĩ có tình trạng này là vì... trong vùng mình ở... chưa có ai tập hay hơn mình, tính cách "ta đây" nho nhỏ xuất hiện và mọi cố gắng trở nên vô nghiã!
ii) Hoặc là có người cùng tập với mình. Nhưng người này lại quá hay, qúa chính xác, nên mặc cảm "thua thiệt" bắt đầu xuất hiện và do đó mà tâm thức trở nên ù lỳ và từ tình trạng này nó thành chai lỳ luôn!
Đây là tình trạng mà sách vở nói về "vi tế ngã" tức là:
một hạt cát của cái gợn nhẹ về bản ngã này đã chận đứng được nguyên bộ máy tâm linh!
iii) Ngoài ra, vì chưa có ai hay hơn mình nên mình không cần cố gắng nữa! Và tự cho là "Nhất Thiên Hạ" rồi! Đây cũng là ... có lý khi hành giả này:
Nói về nghe thì họ có thể nghe từ tiếng ììì của sợi dây có dòng điện đi qua, cho tới tiếng kêu của "Trái Đất". Hay từng hành tinh một trên dãy Ngân Hà! 
Nói về Thấy thì hào quang của họ từ nữa thước (lúc đầu tu tập) thì nay đã phủ trùm từ chỗ họ ở cho tới phân nữa Thái Bình Dương! Và dĩ nhiên là họ đã coi qua luôn được cái kiếp thứ 41 từ khuya rồi.
Nói về nếm thì hành giả có thể nếm cả cái mùi của chính thân thể mình và ngay cả cái mùi... chưa đúng hay chưa chuẩn của một hệ thống hay là của một cái gì đó!
Nói về rờ thì đã từ lâu lắm rồi: Họ đã rờ được từng bộ phận trong thân thể của họ và cho tới... Mặt Trời và Mặt Trăng.
Làm được như vậy: Thì dĩ nhiên, câu nói "Trên Thế Giới này chưa ai làm được như con hết!" là... đúng!
B. Giải quyết:
Như vậy là... ai cũng bị! Nhỏ bị theo nhỏ, lớn bị theo lớn! Cách giải quyết là: Mình tu để làm cái gì? Tất nhiên là để cho mình "hạnh phúc" và cứ suy nghĩ về câu trả lời này thì... an toàn. Có nghĩa là lúc nào mình cũng vui và nhẹ nhàng là ngon lành. 
Còn y như chưa tu, có nghĩa tâm nó cứ bơ bơ và hễ mà có tý chuyện là mình cảm thấy được cái nặng nề... cái mệt mỏi và nhất hay "lên giọng" hơi cáu gắt... là có vấn đề!
3. Suy nghĩ dương tính trong tình trạng thê thảm (tự bơm):
Cái phần này dành cho những người "hay kết án mình"! 
Phải hiểu là sự kết án này nó phát xuất từ:
3.a. Cái tình thương chân thành với thằng Bạn của mình.
3.b. Do mình cũng muốn phụ nó một tay để cho nó đở mệt.
Nhưng vì tập hoài không xong, nên mới sanh ra cái phản ứng trên.
Lời khuyên là: Nên để ý đến câu chuyện "Học đánh kiếm để trả thù cho gia đình".
Chuyện rằng: 
Có gia đình nọ bị cướp vào và bị giết hết. May thay, còn lại bà mẹ và đứa con út. Mẹ nuôi con lớn lên và cho con đi học kiếm để phục thù. Khi thanh niên này gặp được vị Thầy thì anh chàng hỏi rằng:
 - Học nhanh nhất thì trong bao nhiêu năm mới thành kiếm sĩ?
Thầy nhìn tướng người học trò, đo xương bã vai (theo truyền thống bí mật của Samurai), xong rồi mới gật gù trả lời:
 - 5 năm.
Học trò đề nghị là:
- Nếu con học siêng năng và ngày đêm thao dợt thì bao nhiêu năm?
 - 10 năm thì xong.
- Nếu con bỏ hết, ngay cả thời gian ngủ, nghĩ và tiết chế cả ăn và uống để dành cả thời giờ đó vào việc thao dợt thì bao nhiêu năm?
- 15 năm có thể là xong, nhưng chắc rằng xong rồi thì hết làm gì được.
Và nhìn anh thanh niên này, Kiếm Sư nói lên khẩu quyết quan trọng như sau:
- Này anh bạn à, sở dĩ có chuyện trễ nải đến như vậy là vì anh bị phân tâm trong việc học.
Anh bạn phải mất đi 10 năm vì anh bị hai cái: cái thứ nhất là việc học kiếm, và cái thứ hai là việc trả thù.
Còn chuyện 15 năm là vì anh sẽ bị ba cái: cái thứ nhất là học kiếm, cái thứ hai là trả thù và cái thứ ba là không có đủ sức khỏe.
Lời khuyên của tui là anh cứ lo học kiếm và khi học là gác chuyện trả thù qua một bên. Khi nào xong thì tui sẽ nói cho anh bạn biết, và tui sẽ là người  nhắc cho anh bạn nhớ lại là phải đi trả thù.
Kết quả: ba năm sao là anh chàng học xong.
4. Tỷ lệ "quyết tâm"
Ai cũng quyết tâm hết á! Có người làm được, và cũng có người lại không làm được.
Tại sao?
Nguyên nhân sâu xa:
4.a. Trí óc thì biết đây là phương pháp đầy đủ và muốn thực hành, nhưng do thói quen lâu đời nên khó có thể quyết tâm được. 
Thói quen này do đâu mà có?
Con Người chưa tu tập xong thì có ba phần: Tư tưởng, linh hồn và thể xác. Trong đó thể xác ảnh hưởng nặng nề nhất, kế đó là linh hồn và sau cùng là cái tư tưởng.
Thể xác thì... ở đây. Linh hồn thì có khả năng di động nhiều hơn, còn tư tưởng là cái hay trở về với những thói quen xa xưa của hành giả.
Có nghĩa là
khi hành giả ngủ thì tư tưởng lại có thói quen lôi cái linh hồn về lại cõi mà nó hay ở.
Dùng thiên nhãn mà coi một hành giả, thì sẽ thấy được nguyên nhân này liền:
Khi còn thức là "con người" nhưng khi đi ngủ thì linh hồn lại trở về cõi Atula, hay cõi linh vật (Rồng), hay là đi gặp lại những vị thầy mà mình đã tu tập với họ: Thông thường là những cõi của những "Điện Thần Nhân".
Những hành giả này rất là khó mà quyết tâm.
Sau đây là những kinh nghiệm của những người, tuy rằng đang lâm vào tình trạng trên, nhưng vì có phước báu nên đã mò ra cách thức như sau:

4.b. Điều đình tâm thức:
Như đã nói ở trên, tâm của hành giả "chạy ngược chiều" với cái lòng mong muốn (áp dụng cho những hành giả có liên quan đến cái "Điện Thần Nhân"). 
Trong điều kiện này thì phải quay ngược 180 độ. 
Nhưng làm như vậy là quá đột ngột nên tâm lý nó bị giao động rất là mạnh và không ổn định. Do tình trạng không ổn định này mà nó không thể yên tâm mà vào đề mục được. (tình trạng ngủ mê mệt khi sắp sửa vào đề mục).

Nguyên tắc là làm từ từ.
Vào thời kỳ của Đức Phật Thich Ca thì Ngài cho thời gian là ba tháng. Những hành giả này làm cái gì trong ba tháng này?
Họ... hoan hỷ ở "Cận Định" nhưng lại 
kiểm soát không cho mình "lớn lối", và
không cho mình "hở tý là sân hận", "hở tý là ghen tuông". 
Trong ba tháng vào quân trường này họ rơi hoàn toàn vào tình trạng "không phải là Tha Hoá Tự Tại" (do không cho mình "lớn lối") và "không phải là Atula" (do ngăn chặn tình trạng ghen tuông và sân hận). Cũng trong ba tháng này họ cũng được nghe tin tức: Những người tu sĩ được quả vị này, được quả vị kia... việc này để bơm họ lên.
Do sự chuẩn bị tâm lý được như vậy nên khi họ có, hay là gặp những triệu chứng như sau, thì họ biết là thời gian nhấn ga tu hành đã đến:
i) Ra ngoài đường thì hay nghe những người khác gọi nhau sau lưng mình. Chuyện kỳ lạ là họ vẫn cứ gọi nhau hoài đó chớ! Nhưng trong tình trạng "ba tháng quân trường" thì hành giả lại nghe tiếng gọi lại có tính cách "hướng về mình" và rất là chói tai.
ii). Khi công phu vào "Cận Định" thì trong khi nhắm mắt nhìn cái đám sương mù, hay là màu sắc bùi nhùi, xoay xoay ngay đằng trước mặt (thông thường hành gia chỉ dừng ở ngay chỗ này thôi) thì đồng thời cũng có cảm giác là có cái gì đó nó đang ở sau lưng mình. Và hành giả biết là "cái đằng sau lưng là không đúng, và không tự nhiên".
Hai hiện tượng này nó phản ảnh tình trạng níu kéo của các cảnh giới thuộc loại thói quen xa xưa của mình.
Sau khi cứ bị đi, bị lại tình trạng trên, thì hành giả nên hỏi người có thiên nhãn xác nhận lại lần cuối, coi có đúng là như vậy không?
Nếu đúng, là hành giả nhấn ga tu hành vào cách "Nhập Chánh Định" vào đề mục. Song song vào đó, nên nhớ tác ý về tình trạng hỷ lạc khi đề mục đã xuất hiện ổn định (lâu từ 40 giây đồng hồ trở đi).
Mẹo vặt: 
Trong khi đề mục chưa có xuất hiện mà hành giả cũng còn đang loay hoay với cái đám sương mù hay là đám màu sắc... thì hành giả nên bơm mình lên bằng cách suy nghĩ:
Đây là cơ hội ngàn vàng do cố gắng cá nhân mà tui được như vầy đây! Tui đang đi trên con đường "Chánh Pháp" đây là kết quả của những "Phước Báu Vô Lậu" mà tui đã gieo trồng tư vô lượng kiếp cho tới này. Đây đúng là thời thoát xác tu hành! 
Và với tâm hoan hỷ như vậy, hành giả vào công phu và tìm cách vẽ bằng tư tưởng cho ra cái đề mục ngay đằng trước mặt mình.
Nếu chưa ra thì nên biết là từ Vô Lượng kiếp cho tới nay, hành giả chưa một lần đạt được tình trạng công phu theo kiểu này! Do đó mà nó mới... khó làm như vậy! Hiểu như vậy thì không nên kết án mình là... dở, là... không ra gì! Mà vô tình lại rơi vào cái vòng lẩn quẩn của tình trạng ù lỳ trong công phu! Mà nên... bơm mình lên bằng cách nói cho mình nghe là:
Chẳng qua đây là thói quen! Mà thói quen thì làm riết thì nó... quen! Và khi nó đã quen thì nó làm được! Vấn đề chỉ còn là cố gắng cá nhân và nhớ là phải làm đều đều, một cách "trung đạo".
4c. Nhập Chánh Định vào đề mục:
Trong khi tu hành nước rút này:
a). Hành giả không được bước ra khỏi chương trình tu hành. Có nghĩa là phải kềm cái tâm của mình lại, và dán nó vào cái đề mục. 
b). Hoặc là sau này (có thiên nhãn rồi), thì dán cái tâm vào cái điều mà mình muốn quán tưởng. Không cho nó chạy bậy. 
Điều này khó làm... trần ai luôn đó!
Nhưng sau khi bị mệt phờ râu, mệt gần chết, mệt lả người... thì tâm thức đã bị khuất phục và nó phải làm theo ý của mình.
Đối với những người hay về cõi Linh Vật (Rồng) thì chỉ cần sám hối và vào tập vào Chánh Định! Loại hành giả này không thích sám hối đâu! Nhưng chi có cách này thì mới tiến được mà thôi. Hay nói cách khác đây chỉ là quẹo cua 90 độ mà thôi, nên tình trạng điều đình tâm thức nó không có nặng nề như hành giả Atula hay là hành giả "Địên Thần Nhân".
(Đệ là hành giả "Điện Thần Nhân").
Một giấc mơ, hay là một linh ảnh chứng tỏ là hành giả đã giả từ được cảnh giới đó và ra đi:
Các Bạn cứ tưởng tượng một vận động trường có thể chứa được vài tỷ người, và vài tỷ người này đồng thời vẫy tay chào hành giả. Trong khi đó là hành giả lại bay từ từ trên hư không! Cảnh tượng ngoạn mục và thanh tịnh không thể tả được.
Lúc này mà ngủ quên trong chiến thắng là..."không có cái ngu nào bằng cái ngu này". Lúc này là lúc nhấn ga tu hành và nhập cho vững chắc vào cái "Chánh Định trên một đề mục". Làm như vậy là khẳng định với chính mình là "không về lại thế giới này nữa đó!

5. Tuyệt chiêu của Đại Đệ Tử của Đức Phật.
Nói về những Ngài này, ít ai ngờ rằng những gian nan và khó khăn mà các Ngài phải tự chiến đấu với cái thói quen lâu đời của mình. Thật là ngoài sức tưởng tượng của bọn mình khi có thể tạm thời hình dung được hoàn cảnh cô đơn và tuyệt vọng của các Ngài khi đang phấn đấu và tự bức phá để tu hành!
Những Đại Đệ Tử này thật là xứng đáng và là những tấm gương không bao giờ phai mờ. Chỉ trong vòng một tuần thôi mà các Ngài đã chứng tỏ cho cái đám hậu sinh như bọn mình đây... phải... xanh mặt khi chỉ có đọc được phần tóm tắt về những khó khăn mà các Ngài đã phải trải qua trong thời kỳ chập chững vào Chánh Pháp.
Ngài thứ nhất và cũng là Ngài lỳ đòn nhất, không ai khác hơn là Ngài Mục Kiền Liên:
Đó là Ngài mà các tu sĩ sau này chế ra cái chuyện "ăn bánh bao có thịt chó" (Ấn Độ đâu có ăn... bánh bao!), mà bọn mình có thời kỳ "tin như sấm" đó.
5a. Mục Kiền Liên:
Lý lịch cá nhân: mù mờ (vì đây là lúc Ngài còn đang tu hành.)
Phản ứng của tu sĩ, phản ứng này... chỉ có Đức Phật Thích Ca là người phát hiện ra khi Ngài ở Tứ Thiền và đi ăn xin: Ngài đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi đứng trước cửa nhà ai đó! Trong dịp này Đức Phật đã dặn dò Ngài là:
- - "Mỗi lần các thí chủ này trễ nải về chuyện để bát cho ông thì ông nên nhớ cho tui điều này là: Không phải họ khinh ông, mà là họ đang bận làm chuyện gì đó mà thôi!"
Chỉ một chi tiết nhỏ như vậy thôi mà Ngài Mục Kiền Liên đã nhận ra cái không hợp lý của chính mình!
Đó là: Tại sao đã là Tứ Thiền rồi mà còn có tình trạng... mất kiên nhẫn?

Lời bàn:
Thật là tinh tế khi Ngài tìm ra điều này! Tứ Thiền có thể ví như là Bác Sĩ. Và mất kiên nhẫn là phản ứng của người chưa tu, thì có thể ví như là "tình trạng mù chữ". Bác Sĩ và tình trạng mù chữ là hai hiện tượng không chấp nhận, và không thể nào đi đôi với nhau.
Hết lời bàn.
Ngài rà soát kỹ lưỡng hơn nữa trong một ngày và coi Ngài có làm gì sai trái không? Thì Ngài thấy là Ngài không phạm điều gì hết! Vã lại, Ngài lại tu hành xa Đức Phật nên không biết tính sao, và không biết hỏi ai!
Và từ đó Ngài thấy rất là rõ cái gợn nhẹ của sự phật ý! Và chính sự phật ý này lại đưa đến sự mất kiên nhẫn, khi Ngài gặp điều gì không được như ý như là đứng đợi khi đi ăn xin.
Đây là cái gai!
Nhưng nguyên nhân của cái gai thì Ngài lại mù tịt! 
Cô đơn và tuyệt vọng trong rừng, Ngài không tìm ra được đâu là cái khuyết điểm về cách tu hành của mình! 
Ngài tự nhủ:
- - Thật là điên cái đầu! Mình giữ giới luật tới như vậy là cùng cực rồi! Tập tành như vậy là hết rồi! Đề mục rõ và không gian thanh tịnh như vậy là hết mức rồi! Nhưng ở đâu lại ra cái tình trạng "mất kiên nhẫn này" vậy ta!

Tất nhiên, "hãy gõ thì sẽ mở", "hãy tìm thì sẽ gặp" lại không sai trong trường hợp này: Ngài đã tìm ra được nguyên nhân của cái thời gian mà Ngài không kiểm soát được! Đó là lúc Ngài đi ngủ! Ngài tự nhủ:
- - À há! Do tình trạng không thể kiểm soát này mà sự mất kiên nhẫn cứ hành hạ mình!
Bởi vậy mà Đức Phật mới có cơ hội để thuyết pháp về cách tu hành để chống lại cơn buồn ngủ.
Trích dẫn
Còn Mahà Moggallàna thì không sử sách nói rõ rại sao Ngài lại chọn nơi ẩn tu xa xôi tận rừng núi, tại ngôi làng Kalla Vàlaputta, thuộc vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha). Ở đó, với một sự tinh tấn bất thối Ngài luôn luôn giữ tâm trong pháp thiền, ngay cả trong lúc đi kinh hành hay trong những oai nghi khác.
Mặc dù vậy, Ngài vẫn bị những cơn buồn ngủ nặng nề tràn ngập. Ngài không muốn đầu hàng những hôn trầm này. Nhưng Ngài vẫn bất lực, không thể giữ cho thân mình ngồi thẳng, và đầu vẫn ngục xuống. Có những lúc Ngài phải vận dụng toàn lực để mở rộng đôi mí mắt, không cho nó khép lại.
Ðây là một trạng thái rất dễ hiểu. Bởi khí hậu vùng nhiệt đới oi bức, và bởi sau những năm dài du phương tầm đạo. Ðại đức Mahà Moggallànagiờ đây thân thể phải mệt mỏi và những cơn buồn ngủ đến với Ngài là một sự tự nhiên.
Nhưng đức Thế Tôn, bằng đức tính chăm sóc của một bậc thầy đến hàng đệ tử, Phật dù biết vậy, vẫn không ngừng theo dõi mọi sinh hoạt của Mahà Moggallàna. Ðức Phật tuy ở xa, nhưng với nhãn lực siêu phàm Ngài đã thấy rõ những trở ngại tu tập của người tân môn đồ đó, nên dùng Phật lực hiện ra trước mặt Mahà Moggallàna.
Khi Mahà Moggallàna thấy Phật đang đứng trước mặt mình, một phần lớn sự buồn ngủ, sự mệt nhọc tự nhiên bị biến mất. Bây giờ đức Thế Tôn mới hỏi Ngài:
- Phải chăng Mahà Moggallàna đang ngủ gục?
- Bạch Thế Tôn! đúng vậy!
Phật bèn dạy tám phần pháp giải trừ chướng ngại hôn trầm (buồn ngủ) như sau:
1/ Này Mahà Moggallàna! Ðừng nghĩ rằng có cơn buồn ngủ đang ở trong ông, rồi chú ý đến nó. Giữ tâm như thế cơn buồn ngủ sẽ biến mất.
2/ Nếu làm như vậy mà hôn trầm không đi mất thì ông nên nhớ lại những lời dạy của Như Lai và suy ngẫm. Khi ông nhớ đủ, rồi soi xét ý nghĩa giải thoát thì hôn trầm sẽ biến mất.
3/ Nhưng nhớ đủ Phật ngôn như thế mà hôn trầm không biến mất, thì ông nên lập lại sự phán xét ấy một cách chi tiết hơn về các pháp hữu vi của Như Lai đã dạy, hôn trầm sẽ theo đó mà biến mất.
4/ Nhưng nếu hôn trầm cũng không biến mất thì ông đem tâm ý vào xúc giác, cọ mạnh đôi vành tai và xoa bóp tứ chi thì hôn trầm (hay cơn buồn ngủ) sẽ biến mất.
5/ Khi làm như vậy mà hôn trầm cũng không đi mất thì ông nên đổi oai nghi, để tâm và ý duyên vào động tác, như đứng dậy đi rửa mặt bằng nước mát, rồi phòng tầm mắt quan sát tất cả mười phương tám hướng. Ðoạn ông nhìn lên bầu trời, quan sát mọi tinh tú, không gian, thì hôn trầm sẽ biến mất.
6/ Nhưng nếu làm như thế mà hôn trầm vẫn không biến mất thì ông nên chăm chú đến ánh sáng. Nếu ấy là ban ngày thì lấy ánh sáng mặt trời làm đề mục. Ban đêm thì lấy ánh sáng tinh tú (trăng, sao) làm đề mục. Ðây là cách làm cho tinh thần xán lạn không bị u ám, hôn trầm sẽ biến mất.
7/ Nhưng nếu dùng ánh sáng bền ngoài mà hôn trầm không biến mất thì ông quay lại soi xét nội tâm. Lấy nội tâm làm đề mục và cố gắng xem kỹ từng ý nghĩa, giống như lấy ánh sáng tinh thần để rọi thẳng vào tâm thức để thấy rõ từng chập tư duy khác nhau , đừng để một thứ tư duy nào hiện lên trong đầu ông mà ông không biết, đồng thời ông đứng dậy đi kinh hành. Làm thế hôn trầm sẽ biến mất.
8/ Như thế mà hôn trầm vẫn không biến mất thì ông có thể nằm xuống, biết rõ mình đang nằm như một con sư tử: vai mặt ở dưới, vai trái ở trên, hai chân duỗi thẳng, kê lên nhau, giữ trong tâm một ý niệm mạnh mẽ là: "Ta phải biết mình toàn thân đang nằm như thế nào? Nếu thân thể ta mệt mỏi thì ta để cho nghỉ ngơi, nhưng ta không say đắm trong sự nghỉ ngơi ấy!" thì hôn trầm sẽ biến mất. 
Tất nhiên, Ngài chiến thắng và làm xong trong 1 tuần.
Sau này Ngài sưu tra lại lý lích của mình thì Ngài phát hiện ra mình đã là "Thiên Ma".
Như vậy, hàng giả "Thiên Ma" sẽ phải vượt qua một cái núi Tu Di khó khăn đó là "Chống lại cơn buồn ngủ".
 Chỉ còn độc lộ này (con đường duy nhất) để mà thoát thân mà thôi! Vì hễ mà hành giả đi ngủ là thói quen làm Thiên Ma lại có dịp hoành hành và lấy lại sức để rồi... làm cho hành giả mất kiên nhẫn, có nguy cơ dẫn đến sân hận và sau cùng là trở về an trú trong Tứ Thiền với khuyết tật sân hận này. Và dĩ nhiên là chôn đời trong vòng lẩn quẩn để làm đi, làm lại cái chuyện... Thiên Ma!
Vòng tròn khép kính đến vô tận. 
Ngài Mục Kiền Liên đã đập tan ngục tù này chỉ trong vòng có 7 ngày!
Trong cái chỗ giam người: Cực hình không cho ngủ là một trong cái dã man nhất: Nạn nhân bị điếc, bị nhức đầu, mệt mỏi cực kỳ, và sau cùng là ảo giác, rồi điên. Tất cả cực hình này chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.

5b. Ngài Xá Lợi Phất:
Đại Đệ Tử thứ hai này của Đức Phật Thích Ca là Ngài Xá Lợi Phất. Nghe tới Ngài thì có ai ngờ là để có cái tài thuyết phát tương đương với Đức Phật thì chính Ngài phải... tự thắng một cách cam go như thế nào!

Trong bài trích dẫn về chuyện ngủ gục của Ngài Mục Kiền Liên, nếu các Bạn đọc kỹ thì sẽ thấy cái đoạn giải thích rằng Ngài Mục Kiền Liên ngủ guc vì cái nóng oi ả của xứ Ấn Độ! Hiện tượng "lấy bụng ta, suy ra bụng người" là một trở ngại lớn nhất trên con đường tu hành. Với sự thông minh sẵn có, tu sĩ này dùng lý luận theo cái nhìn bình thường và giải thích rất là ngon lành, chẳng coi trước và xem sau gì cả.
Cái trở ngại này, Đức Phật gọi là "Thế Trí Biện Thông". Do "suy luận" nó nhảy vào và dùng sự nhận xét logic của nó để giải thích mọi sự việc. Tất nhiên, làm kiểu này thì kết quả sẽ là "gần đúng" và từ đó sẽ đẻ ra nhiều pháp môn "gần đúng". Do cái tình trạng na ná này mà Chánh Pháp bị tan tành đó là cái thảm họa lớn nhất! Còn cái thảm họa nhỏ hơn là khi hành giả nghe về "Vô Thường" thì cái "thế trí biện thông" nó nhảy vào và đưa ra hàng loạt kết luận: Vì tất cả là "Vô Thường" nên hiện tượng hiên nhiên là: Không có pháp nào để tu, không có quả vị nào để chứng!

Ngài Xá Lợi Phất bị cái cú này!
Khi Ngài quán đề mục thì vừa lúc đề mục xuất hiện mờ mờ thì "thế trí biện thông" nhảy tót vào và định nghĩa:
- - Cái này đâu có phải là quán mà chỉ là trí tưởng tượng mà thôi!
Và khi đề mục mới xuất hiện và chỉ là mờ mờ:
Thế trí biện thông lại xuất hiện:
- - Cái này đâu có phải là thấy, nếu mà là "thấy" thì nó phải là rõ như mình nhìn cái lá cây kia kìa! Cái này đúng là do tưởng tượng, nó chẳng có ăn nhập vào đâu cả! Và làm như vậy là... sai rồi!
Và Ngài làm bất cứ cách nào thì cái suy luận này cứ nhảy vào, rồi định nghiã! Ác một cái là nó tự cho nó điểm bằng cách nhận xét, phê bình này nọ luôn!
Không cần phải suy nghĩ dong dài! Ngài chỉ hét trong cái tâm của Ngài cái câu trứ danh:
"Tui không muốn thấy các sắc pháp này nữa! Vì tui biết còn có nhiều cảnh giới cao đẹp hơn, cũng như còn nhiều sự giải thoát cao hơn nữa! Tui còn rất nhiều việc phải làm!"


Với chiêu thức này, cùng với ngay lúc Ngài cảm nhận được sự hỷ lạc loan toả ra trong thân thể của Ngài khi Ngài chứng Sơ Thiền thì "thế trí biện thông" tạm thời lui binh.
Quật ngã Ngài không được, "thế trí biện thông" lui vào linh tính và làm cho Ngài có một trực giác rất là bén nhậy: Ngài thuyết pháp rất là trúng ý của Đức Phật Thích Ca. Đến độ, Đức Thế Tôn đã nhiều lần xác định rằng:
- - Nếu mà tui có nói cho mấy ông nghe thì cũng đến cở này là hết! Xá Lợi Phất đã trình bày không sót một chi tiết, mấy ông nên theo đó mà làm.

Và cứ thế, Ngài cứ một mạch sử dụng cái linh tính này.
Tuy nhiên, cái linh tính đâu phải lúc nào cũng đúng đâu!
Nếu nói về thuyết pháp thì Ngài Xá Lợi Phất siêu đẳng bao nhiêu thì ngược lại: Chuyện hướng dẫn những người khác tu hành, Ngài lại sơ hở bấy nhiêu.
Cũng ví cái linh tính này mà Ngài bị hố to!
Chuyện rằng:
[...]
Đến năm lên mười tám, nhân dịp một tư tưởng luyến ái phát sanh có liên quan đến thân hình đẹp đẽ của mình, Sa-di Rahula (La Hầu La) lại được nghe một bài Pháp thâm diệu về sự phát triển tinh thần. Ngày nọ thầy Sa-di theo Đức Phật trì bình. Phong độ oai nghiêm quý trọng của hai vị tu sĩ xem tựa hồ như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con quý phái, như thiên nga của đức vua dắt con lội trên mặt hồ trong cung điện, như hổ chúa oai phong và hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng mã thượng và vương tôn, cả hai đều từ ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, Sa-di Rahula (La Hầu La) nghĩ rằng: "Ta cũng đẹp đẽ như Đức Thế Tôn, cha ta. Thân hình của Đức Phật vô cùng đẹp đẽ và thân hình ta cũng vậy. [16]"

Đức Phật đọc ngay tư tưởng bất thiện ấy. Đang đi, Ngài dừng chân, quay lại dạy như sau:
"Bất luận hình dáng đẹp đẽ hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, cũng phải được quan sát như vầy: Cái này không phải của ta (N'etam mama); cái này không phải là ta (N'eso'ham' asami); cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so atta) [17]"
Thầy Rahula cung kính bạch với Đức Phật có phải ta chỉ nên xem hình thể như thế ấy không. Đức Phật dạy rằng ta phải xem tất cả năm uẩn (khandha) [18] như thế ấy.
Sau khi nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, Thầy Rahula xin phép không đi theo vào làng trì bình như mọi hôm. Thầy dừng lại dưới cội cây, ngồi tréo chân theo lối kiết già, thẳng mình và chú tâm hành thiền.

Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), thầy tế độ của Sa-di Rahula (La Hầu La), lúc ấy không biết người đệ tử đang hành thiền về một đề mục mà Đức Phật vừa dạy, thấy thầy Rahula ngồi kiết già dưới cội cây thì khuyên nên chú tâm về pháp niệm hơi thở (Anapana Sati).
Sa di Rahula lấy làm phân vân khó xử bởi vì Đức Phật dạy một đề mục và vị thầy tế độ lại dạy một đề mục hành thiền khác.
[...]
Hết phần trích dẫn.
Thế là Ngài La Hầu La toát mồ hôi lạnh vì không biết tính sao?
Đây đều là hai sư phụ, nếu mà La Hầu La làm theo ý Ngài Xá Lợi Phất thì Ngài bị phạm lỗi là không thi hành lời khuyên của Đức Phật và ngược lại! Ngài bèn đi hỏi Đức Phật!
Cũng may La Hầu La là một Phật Tử đúng hiệu con nai tơ! (con ruột của Đức Phật, thì khi hỏi ba mình thì đâu có gì là ngại ngùng?), chớ nếu mà lại là một phật tử xoàn xoàn và do cái tính hay ngại ngùng khi đặt câu hỏi và rồi cứ ngồi đó nhắm mắt mà nghĩ tới chuyên đời thì hậu quả sẽ không biết ra sao!
Vì không có thể khai triển cái năng lực quán tưởng (còn gọi là: Thực hành chánh định trên một đề mục) nên Ngài Xá Lợi Phất đã không có đủ phương tiện để độ những đệ tử của mình lên Tu Đà Hàm được! Mà Ngài chỉ dừng lại ở trạng thái "Nhập Lưu" hay là Tu Đà Hường mà thôi. Trong khi đó thì Ngài Mục Kiền Liên là độ cho tới A La Hán luôn.
Kết Luận:
Bài này tới đây là hết. 
Nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ hết được! Vì mỗi hành giả là một sự đặc biệt. 
Tuy nhiên, có thể tự mò ra những khiếm khuyết của mình qua những ví dụ trên. 
Vì thật ra, là ít có ai mà không bị pha trộn lắm!
Thông thường là "Hành giả Thế Trí Biện Thông" lại rất là nhiều. 
Còn những trường hợp đặc biệt như là hành giả Thiên Ma thì đệ chưa có gặp ai cả.
Hết.